Theo thống kê, hàng triệu người trên thế giới đang phải đối mặt với tình trạng răng ê buốt. Đây là một vấn đề phổ biến và gây ra nhiều phiền toái trong cuộc sống hàng ngày. May mắn thay, các nhà khoa học đã tìm ra giải pháp hiệu quả để giảm thiểu tình trạng này, đó chính là Kali Citrate 5.3%.
Ê buốt răng có đặc trưng là các cơn đau ngắn, nhói thường phát sinh khi tiếp xúc với các kích thích nhiệt, bay hơi, cơ học hoặc thẩm thấu lên phần ngà răng tiếp xúc, và không thể giải thích được bằng bất kỳ dạng khiếm khuyết hoặc bệnh lý nha khoa nào khác. Tình trạng ê buốt này thường là kết quả của tình trạng ngà răng bị lộ ra, đôi khi có thể gây đau hoặc khó chịu khi ăn, uống.
Ê buốt răng là một trong những vấn đề răng miệng thường gặp nhất và ước tính tỷ lệ mắc bệnh này ở nhóm người trưởng thành có răng dao động từ 8% đến 57%. Tình trạng này đạt đỉnh ở độ tuổi 20 – 30 và sau đó tăng trở lại khi mọi người ở độ tuổi 50. Khi bị kích thích bằng nhiệt, xúc giác, cơ học, chẳng hạn như đánh răng, thức ăn ngọt và chua, và nước nóng hoặc lạnh, tiếp xúc với ngà răng bị lộ, bệnh nhân sẽ cảm thấy đau nhói trong thời gian ngắn được gọi là ê buốt răng. Hầu hết tình trạng ê buốt là kết quả của sự mài mòn, ma sát, xói mòn, gãy, tụt nướu và thói quen chải răng không đúng cách. Các vị trí ưu tiên kiểm tra theo thứ tự giảm dần là răng nanh, răng tiền hàm đầu tiên, răng cửa, răng tiền hàm thứ hai và răng hàm.
Hiện nay, có nhiều giả thuyết được đưa ra để giải thích tại sao răng lại ê buốt khi tiếp xúc với các kích thích nóng, lạnh, chua, ngọt. Hai trong số những giả thuyết được quan tâm nhiều nhất là:
(1) Các nguyên bào ngà răng và các quá trình của chúng hoạt động với vai trò làm các cơ chế thụ thể ê buốt
(2) Các dây thần kinh tủy được kích thích bởi một cơ chế thủy động lực học, và các xung thần kinh trong tủy được điều chỉnh bằng cách giải phóng một số polypeptide trong quá trình tổn thương tủy.
Trong số những lý thuyết này, lý thuyết được chấp nhận rộng rãi nhất là lý thuyết thủy động lực học về ê buốt. Theo lý thuyết này, khi răng tiếp xúc với các kích thích như nóng, lạnh, chua, ngọt, một dòng chất lỏng bên trong các ống ngà răng sẽ di chuyển rất nhanh theo cả hai chiều. Sự chuyển động đột ngột này tạo ra một áp lực lên các dây thần kinh nằm sâu bên trong răng, gây ra cảm giác ê buốt. Nói một cách đơn giản, khi răng bị kích thích, các dây thần kinh sẽ không bị tác động trực tiếp mà gián tiếp bị kích thích qua việc dịch chuyển của chất lỏng trong ống ngà. Sự thay đổi áp lực này giống như một tín hiệu gửi đến não, báo hiệu rằng răng đang bị tổn thương và cần được bảo vệ.
Với nguyên tắc thủy động lực học này đã hình thành 2 cách tiếp cận cơ bản để điều trị răng quá cảm: (1) loại bỏ các ống ngà để giảm lưu lượng chất lỏng bị kích thích, hoặc (2) làm giảm khả năng kích thích dây thần kinh nội nha để các dây thần kinh không phản ứng với các chuyển động của chất lỏng bị kích thích. Từ đó có thể sử dụng các phương pháp để điều trị ê buốt răng: phẫu thuật niêm mạc nướu, cắt tủy và sử dụng nhựa, tia laser, tác nhân giảm ê buốt tại chỗ và nước súc miệng hoặc kem đánh răng giảm ê buốt. Nước súc miệng giảm ê buốt hoặc kem đánh răng giảm ê buốt được coi là phương pháp điều trị đơn giản nhất và tiết kiệm chi phí nhất đối với hầu hết bệnh nhân. Các thành phần kem đánh răng giảm ê buốt phổ biến và đơn giản nhất hiện có là hợp chất Kali (potassium). Người ta cho rằng các ion Kali (potassium) có tác dụng ngăn chặn điện thế hoạt động được tạo ra ở các dây thần kinh trong ổ răng, khử cực tế bào thần kinh khiến chúng không phản ứng với các kích thích.
Nghiên cứu “Clinical efficacy of toothpaste containing potassium citrate in treating dentin hypersensitivity” được thực hiện năm 2009 tại Khoa Nha chu, Bệnh viện Đại học Y Trung Sơn với 172 tình nguyện viên (99 nam và 73 nữ) tham gia cho kết quả: Kem đánh răng chứa 5,3% Kali Citrate (Potassium citrate) có tác dụng giảm ê buốt trên 85% đối tượng sử dụng sau 4 tuần.
VAS (Visual Analog Scale) thường được sử dụng để đánh giá tình trạng quá ê buốt. VAS bao gồm một đường 100 mm với số 0 ở một đầu biểu thị không đau chút nào và số 100 ở đầu kia biểu thị cực kỳ đau. Người tham gia được yêu cầu vẽ một đường thẳng đứng trên thang phương ngang tại một điểm tương ứng với phản ứng của người đó đối với kích thích
Những người tình nguyện có điểm số theo VAS từ 30 đến 80 mới đủ điều kiện tham gia nghiên cứu lâm sàng. Mỗi đối tượng được kiểm tra một chiếc răng
Bảng 1: Số điểm theo thang điểm (VAS) lúc ban đầu và sau 4 tuần sử dụng kem đánh răng giảm ê buốt có chứa Kali Citrate
Số thứ tự bệnh nhân | Giới tính | VAS I (Khởi điểm) | VAS II (4 tuần) |
1 | F | 71 | 53 |
2 | F | 37 | 26 |
3 | F | 44 | 29 |
4 | F | 32 | 16 |
5 | M | 52 | 29 |
6 | M | 78 | 37 |
7 | M | 57 | 26 |
8 | M | 42 | 23 |
9 | M | 43 | 28 |
10 | M | 55 | 43 |
11 | F | 49 | 11 |
12 | F | 36 | 39 |
13 | F | 43 | 18 |
14 | M | 41 | 18 |
15 | M | 59 | 26 |
16 | M | 44 | 29 |
17 | M | 73 | 75 |
18 | M | 26 | 12 |
19 | F | 61 | 41 |
20 | M | 74 | 29 |
21 | F | 42 | 12 |
22 | F | 38 | 0 |
23 | F | 26 | 27 |
24 | M | 26 | 29 |
25 | F | 60 | 34 |
26 | M | 76 | 80 |
27 | M | 64 | 36 |
28 | F | 58 | 37 |
29 | F | 32 | 16 |
30 | F | 54 | 32 |
31 | M | 44 | 47 |
32 | M | 51 | 23 |
33 | F | 30 | 15 |
34 | F | 49 | 33 |
35 | M | 63 | 47 |
36 | F | 57 | 39 |
37 | F | 58 | 27 |
38 | M | 55 | 23 |
39 | M | 66 | 24 |
40 | M | 63 | 38 |
F = Nữ, M = Nam
Bảng 2: Dữ liệu về sự cải thiện sau khi sử dụng kem đánh răng giảm ê buốt có chứa Kali Citrate
Giới tính | n | Cải thiện, n | Cải thiện (%) |
Nam | 20 | 16 | 80 |
Nữ | 20 | 18 | 90 |
Tổng | 40 | 34 | 85 |
Bảng 3: Các vị trí được kiểm tra để phát hiện tình trạng ê buốt *
Vị trí | Nam
(n = 44) |
Nữ
(n = 42) |
Tổng cộng
(n = 86) |
Răng nanh | 14 (31,82) | 15 (35,71) | 29 (33,72) |
Răng tiền hàm thứ 1 | 14 (31,82) | 10 (23, 81) | 24 (27,91) |
Răng cửa bên | 7 (15,91) | 6 (14, 29) | 13 (15,12) |
Răng cửa | 5 (11,36) | 4 (9,52) | 9 (10,47) |
Răng tiền hàm thứ 2 | 3 (6,82) | 4 (9,52) | 7 (8,14) |
Răng hàm | 1 (2,27) | 3 (7,14) | 4 (4,65) |
* Dữ liệu được trình bày dưới dạng n (%).
Bảng 4: Tổng hợp điểm số theo thang điểm (VAS) lúc ban đầu và sau khi sử dụng kem đánh răng giảm ê buốt có chứa Kali Citrate trong 4 tuần
VAS | |||
Giá trị giữa | Phạm vi | Giá trị trung bình ± SD | |
Khởi điểm | 51,5 | 26 – 78 | 50,72 ± 14,39 * |
4 tuần | 29 | 0 – 80 | 30,68 ± 15,50 * |
* Có ý nghĩa thống kê giữa thời điểm ban đầu và thời điểm sau 4 tuần, P < 0,01. SD = Độ lệch chuẩn
Có 107 người tham gia (69 nam và 38 nữ) không phản ứng với kích thích và có điểm số theo VAS là 0. 65 người tham gia (30 nam và 35 nữ) báo cáo số điểm theo VAS là > 10. Do đó, tỷ lệ ê buốt trong nghiên cứu này là 38% (65/172).
40 tình nguyện viên (20 nam và 20 nữ) đáp ứng các tiêu chí (số điểm theo VAS từ 30 đến 80) đủ điều kiện tham gia nghiên cứu lâm sàng. Điểm số theo VAS của mỗi người ở giai đoạn ban đầu và 4 tuần sau đó được thể hiện trong Bảng 1: 34 số 40 (85%) người tham gia được phát hiện đã giảm tình trạng ê buốt sau khi sử dụng kem đánh răng chứa Kali Citrate trong 1 tháng (Bảng 2). Tỷ lệ cải thiện là 90% ở nữ và 80% ở nam. Các vị trí được kiểm tra theo thứ tự giảm dần là răng nanh, răng tiền hàm đầu tiên, răng cửa, răng tiền hàm thứ hai và răng hàm (Bảng 3). Bảng 4 minh họa những thay đổi về điểm ê buốt trung bình theo VAS đối với các kích thích sau giai đoạn 4 tuần. Số điểm giảm đi sau khi sử dụng kem đánh răng giảm ê buốt, từ 50,72 mm ở giai đoạn ban đầu xuống còn 30,68 mm khi kết thúc thời gian 4 tuần. Kem đánh răng giảm ê buốt có chứa Kali Citrate được phát hiện có tác dụng làm giảm đáng kể tình trạng ê buốt răng (P < 0,01).
Kem đánh răng có chứa ion Kali cũng được một số nghiên cứu lâm sàng khác báo cáo là có hiệu quả trong việc làm giảm tình trạng ê buốt, và Hội đồng Trị liệu Nha khoa của Hiệp hội Nha khoa Hoa Kỳ đã cấp phép cho kem đánh răng có chứa 5% Kali Citrate. Kem đánh răng có chứa 3,75% Kali Citrate hoặc 5,3% Kali Citrate cũng được báo cáo là có hiệu quả lâm sàng trong việc điều trị tình trạng ê buốt răng.
Cơ chế: Các nhà khoa học cho rằng các ion Kali hoạt động bằng cách chặn các khớp thần kinh giữa các tế bào thần kinh, do đó làm giảm sự kích thích thần kinh và cơn đau liên quan. Người ta đưa ra giả thuyết rằng các ion Kali được giải phóng từ kem đánh răng khuếch tán dọc theo các ống ngà răng để khử cực tế bào thần kinh, vô hiệu hóa các dây thần kinh trong răng, khiến chúng không phản ứng với các kích thích.
Kem đánh răng giảm ê buốt có chứa 5,3% Kali Citrate có hiệu quả trong việc giảm tình trạng ê buốt trên 85% đối tượng sử dụng sau 4 tuần trên tổng số tình nguyện viện tham gia nghiên cứu.
Tại Việt Nam, từ các nghiên cứu cơ bản, Công ty Dược Khoa đã ứng dụng để sản xuất sản phẩm nước súc miệng T.M.T Sensitive với 5.3% Kali Citrate giúp cải thiện tình trạng ê buốt răng hiệu quả cho người nhạy cảm, người có răng ê buốt khi đánh răng ăn thức ăn ngọt, chua hay sử dụng nước nóng hoặc lạnh.
Tài liệu tham khảo
Shih-Ya Shen, Chung-Hung Tsai, Li-Chiu Yang, Yu-Chao Chang (2009), “Clinical efficacy of toothpaste containing potassium citrate in treating dentin hypersensitivity”, J Dent Sci 2009;4(4): pp 173−177.